Hiển thị các bài đăng có nhãn xướng họa. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn xướng họa. Hiển thị tất cả bài đăng

17/2/13

Tái họa bài Mộng dưới hoa





Cụ Kim Trần tái hoạ: 

EM TÔI
Thơ giăng khắp nẻo tựa đèn hoa
Có dáng em tôi bỗng nhạt nhòa
Lụa rũ còn hờn khi vóc chuyển
Mi buồn vẫn đẹp lúc châu sa
Ghen thừ gió nỡm vờn cung cấm
Chết đứ tay tiên chạm chén ngà
Mấy kiếp tu rồi nay mới thoả
Làm gì gã ấy lại buông ra.


Xin mượn đề tiếp tục:

Từ hôm tiễn biệt nhớ hương hoa
Kỷ niệm đêm xưa khó xóa nhòa
Má liễu nhầm trao nơi gác tía,
Thân đào nhỡ lạc chốn mưa sa.
Canh thâu khắc khoải buồn khăn thắm,
Bóng xế chờ mong trễ lược ngà.
Đếm mỏi trông chờ ngày gặp lại,
Xa xôi cách trở có tin ra?



16/2/13

Họa bài Mộng dưới hoa


Bài của cụ Kim Trần

MỘNG DƯỚI HOA (Mượn đề)

Gác trọ buông đàn mộng dưới hoa
Ngoài song hợp tấu vạt mưa nhòa
Nghiêng bờ vai nhỏ tình sao rộn
Chuyển giọng nam trầm nhện cũng sa
Ước dẫu vài giây cùng ảnh ảo
Mong dù một phút với thân ngà
Phong trần vạn nẻo chưa từng gặp
Tưởng tượng đêm dài mãi hát ra…


Bài họa:
Mấy dịp tìm về chốn nguyệt hoa
Nàng buông phím nhạc lệ che nhòa
Đêm còn ngơ ngẩn mùi hương nhẹ
Sớm đã bâng khuâng tiếng nhạn sa
Rượu chát có say bên gối ngọc
Men nồng mãi tỉnh cạnh tay ngà
Vô duyên hết phận chừng nào gặp,
Cách biệt nhau rồi mới nhận ra.


11/1/13

Thơ xướng họa đặc biệt ở nước ta

Người sưu tầm, chép lại và chú thích: cụ Hương Nam Trần Đức Cảnh
Trích bài giảng Hương Nam học đường
Đất nước ta thời nhà Minh xâm lược, có tướng tên là Mao Bá Ôn (毛伯溫), một lần đối thoại ở biên giới Nam Quan, hắn xấc xược làm bài xướng “Vịnh Bèo”, chữ Hán là “Vịnh Bình”, bấy giờ phía nhà Mạc ta có nhiều người họa, đặc biệt là Giáp Hải.
Giáp Hải (甲海) là trạng nguyên thứ 34/47 ghi tên ở Văn Miếu, đỗ trạng nguyên kỳ thi năm Mậu Tuất (1538) đời nhà Mạc, Giáp Hải (1507-1586) quê làng Dĩnh Kế, huyện Phượng Nhãn, làm con nuôi một gia đình ở làng Bát Tràng (ông có hai quê).
Bài thơ ông họa lúc đang làm quan, tỏ khí phách vừa nhún nhường của nước yếu mà không tự hạ.
Xin chép nguyên văn hai bài thơ chữ Hán.


Bài Xướng:

隨田逐水骨收臢
到此看之湜不深 
没有本根没有榦 
敢生之葉敢生心 
都知聚處寜之散 
但識浮时卸識沉 
大柢冲天鋒恶氣 
掃歸湖海便難尋

BÌNH
Tùy điền trục thủy cốt thu châm
Đáo thử khan chi thực bất thâm
Một hữu bản căn một hữu cán
Cảm sinh chi diệp cảm sinh tâm
Đô tri tụ xứ ninh chi tán
Đãn thức phù thời tá thức trầm
Đại để xung thiên phong ác khí
Tảo quy hồ hải tiện nan tầm.

Dịch nghĩa:
Bèo trôi theo nước vào ruộng cốt để thu các chất bẩn (phân), ta (Bá Ôn) đến xem chỗ ấy nước trong nhưng không sâu; bèo không có cuống rễ, không có gốc; thế mà cũng sinh ra lá tim nữa; biết tụ lại một chỗ cũng phải biết tan ra chứ, chỉ biết nổi thôi ư?, không biết có lúc phải chìm à?; Phong ba bão táp nổi lên cuốn phăng bèo ra biển biết đâu mà tìm. 

***

Bài Họa:

錦心密密不容針 
帯葉鏈根必继深 
相與白雲爭水面 
抗交紅日照波心 
千重浪打成難破 
萬陣風吹永不沉 
多少魚龍藏面裡 
公無計不拘尋

BÌNH
Cẩm tâm mật mật bất dung châm
Đới điệp liên căn tất kế thâm
Tương dữ bạch vân tranh thủy diện
Kháng giao hồng nhật chiếu ba tâm
Thiên trùng lãng đả thành nan phá
Vạn trận phong xuy vĩnh bất trầm
Đa thiểu ngư long tàng diện lý
Thái công vô kế bất câu tầm. 

Dịch nghĩa:
Bèo sống ken dày đặc, cái kim không lọt; Lá nó phát sinh nhanh, tạo thành các cụm, đài, rễ đan thành xích nối dài mãi ra; Bèo không cho mây trắng tranh mặt nước của mình; Không cho mặt trời chiếu vào lòng nước; Nghìn con sóng đánh không tan nổi bèo; Vạn trận gió thổi không làm chìm được bèo; Bao nhiêu cá, rồng ẩn dưới đó; Ngư ông chẳng có cách nào buông câu. 

***
Giải thích thêm: 
Mao Bá Ôn dùng chữ “Bình” là bèo (Bình là tên bố của Mạc Đăng Dung, theo sử Tàu; còn ta hiểu Bình là tên ông Mạc Đăng Dung).



Nguồn ảnh: trên mạng phunutoday