Hiển thị các bài đăng có nhãn Ca trù. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Ca trù. Hiển thị tất cả bài đăng

27/10/14

Thoái quy điền lý

Nguồn: trang Hán Nôm Lạc Đạo

Lời bài hát Ca Trù
Tác giả: Khuyết danh


退歸田里
旣自以心為形役
三十年囬首事何如
菊松三徑是吾庐
詩句独吟还独笑
新鏡霜毛愁自照
故鄉鱸鱠梦初完
身厯幾江山
而今觉迷途之未遠
病鶴傷鸿君不見
倦飛之鳥已知歸
鷦鷯不過一枝

 
Ký tự dĩ tâm vi hình dịch
Tam thập niên hồi thủ sự hà như
Cúc tùng tam kính thị ngô lư
Cựu thi cú độc ngâm hoàn độc tiếu
Tân kính sương mao sầu tự chiếu
Cố hương lô khoái mộng sơ hoàn
Toán thử nhân lịch kỷ giang san
Nhi kim giác mê đồ chi vị viễn
Bệnh hạc thương hồng quân bất kiến
Quyện phi chi điểu dĩ tri quy
Tiêu liêu bất quá nhất chi
 
Lui trở về vườn
Đã đem tâm làm tôi hình thể(1),
Ba mươi năm ngoảnh lại việc sao mà?
Bạn cúc tùng ba dãy chính nhà ta,
Câu thơ cũ ngâm nga mình độc tiếu.
Gương mới – tóc sương - sầu tự chiếu,
Làng xưa – gỏi cá(2) - mộng vừa mơ
Kể tấm thân từng trải mấy sông hồ,
Nay tỉnh giấc, mê đồ chưa ngái lắm.
Ngươi chẳng thấy; con hồng đau, con hạc ốm,
Cánh chim bay mỏi rũ, biết quay về.
Tiêu liêu(3) đậu một cành quê!














Chú thích:
1. Theo câu "Ký tự dĩ tâm vi hình dịch" (Từ buổi đem tâm làm nô dịch cho thân hình) trong bài Quy khứ lai từ của Đào Uyên Minh, đời nhà Tấn.
2.  Gỏi cá Lư quê nhà, ý chỉ quê hương nói chung
3. Tiêu Liêu, một loài chim nhỏ như chim di, chim hồng tước hay chim sẻ. Câu này mượn ý câu trả lời của Hứa Do: "Tiêu liêu sào ư thâm lâm, bất quá nhất chi” (Chim di có làm tổ trong rừng sâu, thì bất quá cũng chỉ làm được trên một cành cây) trong sách của Trang Tử.






4/9/13

Còn lại những gì

Lời Hát nói Ca trù

Mưỡu:

Trên đời được nọ mất kia 
Ai mà được cả sớm chia đôi dòng 
Đâu dài để mãi chờ mong 
Cười vui nâng chén cho lòng thảnh thơi 

Hát nói:

Trời trong mát mẻ 
Nào xuống đây hỡi kẻ tri âm  
Sẵn hồ đầy bạn uống ta châm 
Đừng để cạn có một đêm thật tuyệt 
Vân hộ nhạn sương lung đạm nguyệt 
Vũ liên oanh hiểu lạc tàn mai 
Sống trong đời quá ngắn sầu lại dài 
Mấy khi thỏa chí trai mà đưa đẩy 
Tưởng được đấy cũng là không ngay đấy 
Bảo cho nhau đã biết vậy hãy vui đi 
Nhìn xem còn lại những gì!



Ghi chú:
Câu Thơ trích trong bài Bán Túy của Liễu Tông Nguyên (Đời Đường bên Trung Quốc) 
雲護雁霜籠淡月 
雨憐鶯曉落殘梅 
Dịch nghĩa:
Mây che sương cho nhạn lại che mất cả ánh trăng nhạt, 
Mưa làm đẹp lông chim oanh buổi sáng (nhưng) lại làm rụng cánh mai tàn. 
 

12/8/13

Ngóng chồng

Lời Hát nói Ca trù

Mưỡu

Thu buồn đâu chỉ có Ngâu
Nhìn xem ai đứng ở đầu non kia
Vọng Phu nước mắt đầm đìa
Xem chừng đá cũng sẻ chia buồn này.

Hát nói

Nào ai có biết,
Bao đêm dài, da diết ngóng tin chồng
Kể từ ngày lặng tiễn lúc qua sông
Một mình thiếp, đứng trông vời góc bể
Viễn lộ tư quân thương nhạn thệ 
Trường giang vọng tấn thấu ngư trầm 
Giọt thu hờn, luôn nén chặt trong tâm
Bỏ son phấn, không lược trâm, đơn chăn chiếu
Nơi quan tái, chốn xa, chàng có hiểu
Chân trời kia, luôn thiếu bóng chàng về
Ngâu sang thêm nỗi tái tê



Ghi chú: 
- Câu Mưỡu: Bài Mưa thu, thơ Nguyễn Chân 
- Câu 5,6:
遠路思君傷雁逝
長江望訊透魚沉
Dịch nghĩa: 
Đường xa xôi nhớ chàng thương bóng nhạn qua, 
Sông dài ngóng tin tức thấu hiểu vết cá lặn.

 

9/8/13

Rủ bạn học Nho

Lời Hát nói Ca trù
Tác giả: Nguyễn Đình Bình


Mưỡu:
Tuổi già tớ vẫn cứ ham chơi
Hát hò nhẩy múa lặn bơi đủ trò
Bây giờ vướng phải chữ Nho
Khó như kim lạc lại mò đáy ao

Hát nói:
Chữ Nho thật khó
Qua rừng sâu cần có bạn đường
Lại chớ quên ghềnh thác ấy từ chương
Cần phải cố theo gương người đi trước
Trải khó khăn nên lựa từng nước bước
Vượt chông gai sẽ dẫn đến thành công 
Tuổi già Hán tự đọc thông
Trước con cháu, cha ông càng đáng trọng
Thêm tự hào thêm nhiều ước vọng
Cần cù lao động mở rộng tương lai
Đôi lời liệu có đơn sai!



13/5/13

Hồng Tuyết


"Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng. 
Không Phật, không Tiên, không vướng tục"
                                    (cụ Nguyễn Công Trứ) 

嘆花 
杜牧 
自是尋春去校遲 
不須惆悵怨芳時 
狂風落盡深紅色 
綠葉成陰子滿枝 

Thán hoa

Đỗ Mục 
Tự thị tầm xuân khứ hiệu trì 
Bất tu trù trướng oán phương thì 
Cuồng phong lạc tận thâm hồng sắc 
Lục diệp thành âm tử mãn chi 

Hồng Tuyết

cụ Dương Khuê 楊珪(1839-1902)

Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa thi hội năm Mậu Thìn 1868 (bia ghi: Cử nhân, Hàn lâm viện Điển bạ, chức Biên tu, sinh năm Kỷ Hợi, thi đỗ năm 30 tuổi, người thôn Vân Đình, xã Phương Đình, tổng Phương Đình, huyện Sơn Minh, phủ Ứng Hoà, tỉnh Hà Nội).

Hồng Hồng Tuyết Tuyết
Mới ngày nào còn chửa biết cái chi chi
Mười lăm năm thấm thoắt có xa gì
Ngoảnh mặt lại đã đến k tơ liễu 

上少
我成
(Ngã nng du thời quân thượng thiếu
Quân kim hứa giá ngã thành ông)

Cười cười nói nói sượng sùng
Mà bạch phát với hồng nhan chừng ái ngại
Riêng một thú thanh sơn đi lại
Khéo ngây ngây, khéo ngây ngây dại dại với tình 
Đàn ai một tiếng Dương tranh.

Nghe lại bài Ca trù này

Với chất giọng Đào nương bất t Quách Thị H (Tải v định dạng mp3)

 
*
**
Sau khi bài hát nói nổi tiếng mẫu mực này được sưu tầm đưa lên trang này, chúng tôi được cụ Nguyễn Chân, một nhà thơ, dịch giả trong câu lạc bộ thơ Hán Việt Pháp góp ý và sửa cho một chữ rất quan trọng, một chữ trong câu đối chữ Hán trong bài này.
Đó là chữ Nẵng - còn đọc là Nãng () có nghĩa là "ngày xưa", mới đối được với chữ Kim () nghĩa là "ngày nay".  Không biết, có phải do nói tật nói ngọng L và N mà biến Nãng thành Lãng không!?

Đây là điều rất thú vị và thật ngạc nhiên, vì hầu hết các phiên bản hiện có đều ghi là "Lãng" và câu "Ngã lãng du thời quân thượng thiếu" được nhiều người hiểu thành: lúc ta chơi bời, phóng lãng thì nàng còn nhỏ!!...






Nguồn: Yêu Hán Nôm