22/3/13

Tân Quốc Văn: Bài 31


北風起大雪飛
登樓遠望一片白色
雪止日出檐溜成冰
其形如箸

Bắc phong khởi, đại tuyết phi.
Đăng lâu viễn vọng, nhất phiến bạch sắc.
Tuyết chỉ nhật xuất, thiềm lưu thành băng.
Kỳ hình như trợ.

Dịch nghĩa:
Gió bắc nổi dậy, tuyết lớn bay.
Lên lầu trông ra phía xa, (thấy) một mảnh mây trắng.
Tuyết ngừng rơi, mặt trời mọc, nước trên mái nhà chảy xuống thành băng, hình giống như chiếc đũa.


16/3/13

Rượu Champagne


Tác giả: cụ Nguyễn Đình Bình

Thét lên một tiếng tưởng trời long,
Dồn nén lâu nay, hận ngất lòng
Sủi bọt, sủi tăm cho chúng biết
Xả hơi một chút lắng rồi trong.




15/3/13

Thi đình hữu sự


Tác giả: Hà Như Trần Thế Hào 

Bài thơ chữ Hán khá đặc biệt bởi tác giả sáng tác theo thể Lục Bát, nhân ngày hội thơ Xuân lần thứ XI, tại Văn Miếu, Hà Nội.
Xuân Quý Tỵ, Ngày Nguyên tiêu

詩庭有事 
一期一會一緣 
似乎牛織江邊烏橋 
遠言風月漂遙 
近形顏筆柳絛春升 
詩刀分斷赤繩 
珠還合浦半分又移 
丹心寄託相知 
難時相見別時甚難 
詩庭艶事多端

Nhất kỳ, nhất hội, nhất duyên
Tự hồ Ngưu Chức giang biên ô kiều
Viễn ngôn phong nguyệt phiêu diêu
Cận hình lan bút liễu điều xuân thăng
Thi đao phân đoạn xích thằng
Châu hoàn Hợp Phố bán phần hựu di
Đan tâm ký thác tương tri
Nhan thì tương kiến, biệt thì thậm nan
Thi đình diễm sự đa đoan

Dịch thơ:
Chuyện ở sân thơ
Mỗi lần mỗi hội mỗi duyên
Giống như Ngưu, Chức tít trên Ngân Hà
Lời trăng tiếng gió gần xa
Chuyện người, bút liễu đương đà xuân hương.
Thi ca ngắt sợi dây vương,
Châu về Hợp Phố nửa đường lại thôi.
Lòng thành xin gửi đôi lời,
Lần sau gặp lại biết thời nào đây.
Sân thơ lắm sự rủi may.


Chú thích:
Liễu điều: văn hoa thẳng thắn. Ý câu: dung nhan và bút lực như cành non đang vươn.
Chia tay, bạn thơ tôi dùng câu của Lý Thương Ẩn: 
Tương kiến thời nan, biết diệc nan (Gặp nhau là khó, chia tay nhau càng khó).


Tân Quốc Văn: Bài 30


坐上客遠方來
父陪客食午飯
飯後出門與客閒眺
前有青山旁有流水

Tọa thượng khách, viễn phương lai.
Phụ bồi khách, thực ngọ phạn.
Phạn hậu xuất môn, dữ khách nhàn thiếu.
Tiền hữu thanh sơn, bàng hữu lưu thủy.

Dịch nghĩa:
Khách trên chỗ ngồi, đến từ phương xa.
Cha ngồi bên khách, ăn cơm trưa.
Sau bữa ăn ra cửa, cùng khách thong thả nắm trông.
Phía trước có núi xanh, bên cạnh có nước chảy.


8/3/13

Tân Quốc Văn: Bài 29


巷中有屋四
面短牆向南開門
客堂在前書齋在旁卧室在後

Hạng trung hữu ốc.
Tứ diện đoản tường, hướng nam khai môn.
Khách đường tại tiền, thư trai tại bàng, ngọa thất tại hậu.

Dịch nghĩa:
Trong hẻm có nhà.
Bốn bên là tường ngắn, cửa mở ra hướng nam.
Nhà khách ở phía trước, nhà sách ở bên cạnh, nhà ngủ ở đằng sau.


4/3/13

Đào Hoa (I)

Tác giả: Nguyễn Bỉnh Khiêm 阮秉謙
Dịch thơ: Vĩnh Hà 永河

桃花 (其一) 
仙種誰將館裡栽
好春一度好花開
雪溪溪畔漁舟客
一片殘紅惹得來


ĐÀO HOA (Kỳ nhất)
Tiên chủng thuỳ tương quán lí tài
Hảo xuân nhất độ hảo hoa khai
Tuyết khê khê bạn ngư chu khách
Nhất phiến tàn hồng nhạ đắc lai

Dịch nghĩa:
HOA ĐÀO (Bài I)
Giống tiên ai đem đến trồng ở trong quán
Một độ xuân tươi là một độ hoa thắm nở
Ông khách thuyền chài bên dòng suối Tuyết
(Chỉ) đưa về một cánh hoa tàn

Dịch thơ:
HOA ĐÀO (Bài 1)
Giống tiên trong quán biết ai trồng
Mỗi độ xuân tươi mỗi sắc hồng.
Người khách thuyền chài bên suối Tuyết
Mang về cánh mỏng sắc hương không.

 
HOA ĐÀO (Bài 1)
Giống tiên trong quán ai trồng 
Xuân tươi bao độ bấy hồng sắc hoa.
Bên dòng suối Tuyết khách qua
Mang về được một cánh hoa đã tàn.

Meaning:
PEACH FLOWERS (1st Poem)
(Poem by Nguyen Binh Khiem - Transl by Vinh Ha)

The fairy tree was planted in the garden
In Spring is its nice flowers' blooming season
A fisherman on the Snow stream
Has gathered only one withered petal with him.

------

Hoa Đào (1)  
Hoa tiên có biết được người trồng  
Mấy dịp xuân sang rắc cánh hồng 
Suối Tuyết thuyền theo chân khách đến 
Nhưng còn cánh rã với hư không  






3/3/13

Quốc Tộ

Tác giả: Đỗ Pháp Thuận (915-990) 杜法順

國祚
國祚如藤絡
南天裡太平
無爲居殿閣
處處息刀兵


Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô vi cư điện các (1)
Xứ xứ tức đao binh.


Dịch nghĩa:
Ngôi nước
Ngôi nước như dây leo quấn quýt,
Ở góc trời Nam mở ra cảnh thái bình,
Dùng đường lối Vô Vi ở nơi cung điện,
Thì khắp mọi nơi đều tắt hết đao binh.

I
Ngôi nước
Ngôi nước như mây cuốn,
Trời Nam mở thái bình;
Vô Vi trên điện gác,
Chốn chốn tắt đao binh
Đoàn Thăng

II
Ngôi nước
Ngôi nước: mây cuốn vững bền,
Trời Nam mở hội vui yên thái bình;
“Vô Vi” từ chốn điện đình,
Nơi nơi tắt nạn đao bình khổ nàn!
Đỗ Quang Liên


Chú thích:
Đỗ Pháp Thuận sống vào đời Lê Đại Hành (980-1005) không rõ tên thật và quê quán, là nhà sư thuộc thế hệ thứ 10 dòng thiền Nam Phương, do Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Tinitaruci (?-594)) người Thiên Trúc đến nước ta năm 580 lập ra, được Lê Đại Hành phong chức Pháp Sư. Cùng với nhà sư Khuông Việt, có lần được cử tiếp sứ giả nhà Tống là Lý Giác. 
1. Vô Vi: thuật ngữ trong sách Lão Tử, chỉ một thái độ sống thuận theo tự nhiên, không bị ràng buộc vào những khuôn phép, đạo đức nhân tạo.

Nguồn: Từ trang của Tổ Hán Nôm Lạc Đạo

1/3/13

Tân Quốc Văn: Bài 28


牛力大能耕田能挽車
其肉可食其乳可飲
其角與皮皆可製器

Ngưu lực đại, năng canh điền, năng vãn xa.
Kỳ nhục khả thực, kỳ nhũ khả ẩm.
Kỳ giác dữ bì giai khả chế khí.

Dịch nghĩa:
Bò có sức mạnh, biết cày ruộng, biết kéo xe.
Thịt nó ăn được, sữa nó uống được.
Sừng và da nó đều có thể chế tạo đồ dùng.