Bài trong sách "Mười bốn viên ngọc nhỏ trong Cổ văn Trung Quốc" của cụ Nguyễn Hiến Lê.
Theo cụ Nguyễn, điều đặc biệt nhất là Lan Đình Tập thì không được ai nhắc tới, nhưng Lan Đình tự lại được lưu truyền đến ngày nay.
Hình: Mô bản Thần Long
蘭亭集序
Lan Đình tập tự
Lan Đình tập tự
永和九年,歲在癸丑,暮春之初,會于會稽山
Vĩnh Hoà cửu niên, tuế tại Quý Sửu, mộ xuân chi sơ, hội ư Cối Kê Sơn
陰之蘭亭,脩禊事也。群賢畢至,少長咸集。
Âm chi Lan Ðình, tu hễ sự dã. Quần hiền tất chí, thiếu trưởng hàm tập.
此地有崇山峻嶺,茂林修竹;
Thử địa hữu sùng sơn tuấn lĩnh, mậu lâm tu trúc;
又有清流激湍,映帶左右。
Hựu hữu thanh lưu kích thoan, ánh đái tả hữu.
引以為流觴曲 水,列坐其次;
Dẫn dĩ vi lưu thương khúc thuỷ, liệt toạ kì thứ.
雖無絲竹管絃之盛,
Tuy vô ti trúc quản huyền chi thịnh,
一觴一詠,亦足以暢敘幽情。
nhất thương nhất vịnh, diệc túc dĩ sướng tự u tình.
是日也,天朗氣清,惠風和暢;
Thị nhật dã, thiên lãng khí thanh, huệ phong hoà sướng;
仰觀宇宙之大,俯察品類之盛;
Ngưỡng quan vũ trụ chi đại, phủ sát phẩm loại chi thịnh;
所以游目騁懷,足以極視聽之娛,信可樂也。
Sở dĩ du mục sính hoài, túc dĩ cực thị thính chi ngu, tín khả lạc dã.
夫人之相與,俯仰一世,
Phù nhân chi tương dữ, phủ ngưỡng nhất thế,
或取諸懷抱,晤言一室之內;
hoặc thủ chư hoài bão, ngộ ngôn nhất thất chi nội;
或因寄所託,放浪形骸之外。
Hoặc nhân kí sở thác, phóng lãng hình hài chi ngoại.
雖趣舍萬殊,靜躁不同;
Tuy thú xá vạn thù, tĩnh táo bất đồng;
當其欣扵所遇,暫得於己,
Đương kì hân ư sở ngộ, tạm đắc ư kỉ,
快然自足,不知 老之將至。
khoái nhiên tự túc, bất tri lão chi tương chí.
及其所之既倦,情隨事遷,感慨係之矣。
Cập kì sở chi kí quyện, tình tuỳ sự thiên, cảm khái hệ chi hĩ.
向之所欣,俛仰之間,
Hướng chi sở hân, phủ ngưỡng chi gian,
已為陳跡,猶不能不以之興懷;
dĩ vi trần tích, do bất năng bất dĩ chi hưng hoài;
況脩短隨化,終期於盡。
Huống tu đoản tuỳ hoá, chung kì ư tận.
古人云:死生亦大矣。豈不 痛哉!
Cổ nhân vân: “Tử sinh diệc đại hĩ”, khởi bất thống tai!
每覽昔人興感之由,若合一契;
Mỗi lãm tích nhân hưng cảm chi do, nhược hợp nhất khế;
未嘗不臨文嗟悼,不能喻之扵 懷。
Vị thường bất lâm văn ta điệu, bất năng dụ chi ư hoài.
固知一死生為虛誕,齊彭殤為妄作。
Cố tri nhất tử sinh vi hư đản, tề Bành thương vi vọng tác;
後之視今,亦由今之視昔,悲夫!
Hậu chi thị kim, diệc do kim chi thị tích, bi phù!
後之覽者,亦將有感於斯文。
Hậu chi giám dã, diệc tương hữu hoài ư tư văn.
Vĩnh Hoà cửu niên, tuế tại Quý Sửu, mộ xuân chi sơ, hội ư Cối Kê Sơn
陰之蘭亭,脩禊事也。群賢畢至,少長咸集。
Âm chi Lan Ðình, tu hễ sự dã. Quần hiền tất chí, thiếu trưởng hàm tập.
此地有崇山峻嶺,茂林修竹;
Thử địa hữu sùng sơn tuấn lĩnh, mậu lâm tu trúc;
又有清流激湍,映帶左右。
Hựu hữu thanh lưu kích thoan, ánh đái tả hữu.
引以為流觴曲 水,列坐其次;
Dẫn dĩ vi lưu thương khúc thuỷ, liệt toạ kì thứ.
雖無絲竹管絃之盛,
Tuy vô ti trúc quản huyền chi thịnh,
一觴一詠,亦足以暢敘幽情。
nhất thương nhất vịnh, diệc túc dĩ sướng tự u tình.
是日也,天朗氣清,惠風和暢;
Thị nhật dã, thiên lãng khí thanh, huệ phong hoà sướng;
仰觀宇宙之大,俯察品類之盛;
Ngưỡng quan vũ trụ chi đại, phủ sát phẩm loại chi thịnh;
所以游目騁懷,足以極視聽之娛,信可樂也。
Sở dĩ du mục sính hoài, túc dĩ cực thị thính chi ngu, tín khả lạc dã.
夫人之相與,俯仰一世,
Phù nhân chi tương dữ, phủ ngưỡng nhất thế,
或取諸懷抱,晤言一室之內;
hoặc thủ chư hoài bão, ngộ ngôn nhất thất chi nội;
或因寄所託,放浪形骸之外。
Hoặc nhân kí sở thác, phóng lãng hình hài chi ngoại.
雖趣舍萬殊,靜躁不同;
Tuy thú xá vạn thù, tĩnh táo bất đồng;
當其欣扵所遇,暫得於己,
Đương kì hân ư sở ngộ, tạm đắc ư kỉ,
快然自足,不知 老之將至。
khoái nhiên tự túc, bất tri lão chi tương chí.
及其所之既倦,情隨事遷,感慨係之矣。
Cập kì sở chi kí quyện, tình tuỳ sự thiên, cảm khái hệ chi hĩ.
向之所欣,俛仰之間,
Hướng chi sở hân, phủ ngưỡng chi gian,
已為陳跡,猶不能不以之興懷;
dĩ vi trần tích, do bất năng bất dĩ chi hưng hoài;
況脩短隨化,終期於盡。
Huống tu đoản tuỳ hoá, chung kì ư tận.
古人云:死生亦大矣。豈不 痛哉!
Cổ nhân vân: “Tử sinh diệc đại hĩ”, khởi bất thống tai!
每覽昔人興感之由,若合一契;
Mỗi lãm tích nhân hưng cảm chi do, nhược hợp nhất khế;
未嘗不臨文嗟悼,不能喻之扵 懷。
Vị thường bất lâm văn ta điệu, bất năng dụ chi ư hoài.
固知一死生為虛誕,齊彭殤為妄作。
Cố tri nhất tử sinh vi hư đản, tề Bành thương vi vọng tác;
後之視今,亦由今之視昔,悲夫!
Hậu chi thị kim, diệc do kim chi thị tích, bi phù!
故列敘時人,錄其所 述,
Cố liệt tự thi nhân, lục kỳ sở thuật,
雖世殊事異,所以興懷,其致一也。
tuy thế
thù sự dị, sở dĩ hứng hoài, kỳ trí nhất dã.Cố liệt tự thi nhân, lục kỳ sở thuật,
雖世殊事異,所以興懷,其致一也。
後之覽者,亦將有感於斯文。
Hậu chi giám dã, diệc tương hữu hoài ư tư văn.
Dịch nghĩa:
Năm thứ chín niên hiệu Vĩnh Hoà[5] nhằm năm Quí Sửu, đầu tháng ba[6], hội ở Lan Đình tại huyện Sơn Âm, quận Cối Kê[7] để cử hành lễ tu hễ[8]. Quần hiền tới đủ, già trẻ đều họp.
Nơi đó có núi cao, đỉnh lớn, rừng rậm, trúc dài, lại có dòng trong chảy xiết, chiếu quanh hai bên, dẫn nước uốn khúc là chỗ thả chén[9]. Mọi người ngồi theo thứ tự. Tuy không có tiếng tơ, tiếng trúc, tiếng quản, tiếng huyền[10] cho vui tai, nhưng uống một hớp rượu, ngâm một câu thơ, cũng đủ sướng u tình[11]. Hôm đó khí trời trong sáng, gió nhẹ lâng lâng, ngẩng nhìn vũ trụ mênh mông, cúi xem vạn vật muôn vẻ, phòng tầm mắt, mở cõi lòng, đủ để hưởng hết cái thú của tai mắt, thực là vui vậy.
Người ta cùng cúi ngửa trong đời[12], có người đem cái hoài bão của mình ra đàm đạo với bạn bè trong một nhà, có kẻ gởi tấm lòng ở một sự tình gì mà phóng lãng ở ngoài hình hài; hai hạng người đó tuy thủ xả tĩnh động[13] khác nhau, nhưng đương lúc cái già sắp tới, kịp đến khi mõi mệt, tình ý theo thế sự mà thay đổi, thì đều sinh ra cảm khái. Cái mà trước kia vui trong lúc cuối ngửa, nay đã thành ra vết cũ, mà nhớ lại lòng không thể không hoài cảm. Huống đời người dài ngắn do trời, nhưng đều qui về cõi chết cả. Cổ nhân nói: “Tử sinh đều là việc lớn”, há chẳng đau lòng thay!
Mỗi khi xét nguyên do người đời xưa cảm khái như in với người đời nay[14], không lần nào đọc văn người trước mà không than thở buồn rầu, trong lòng không hiểu tại sao. Cho nên bảo sinh tử cũng như nhau là lời hư ngoa[15]; bảo Bành Tổ không hơn gì kẻ chết yểu[16] là lời nói láo. Người đời sau nhìn lại đời bây giờ cũng như người bây giờ nhìn lại đời xưa[17], buồn thay!
Vì vậy tôi chép lại chuyện người trong tiệc, sao lục thơ họ làm, tuy đời và việc đều khác nhưng lẽ sở dĩ cảm khái thì là một[18]. Người đời sau đọc bài này chắc không khỏi bùi ngùi[19].
Năm thứ chín niên hiệu Vĩnh Hoà[5] nhằm năm Quí Sửu, đầu tháng ba[6], hội ở Lan Đình tại huyện Sơn Âm, quận Cối Kê[7] để cử hành lễ tu hễ[8]. Quần hiền tới đủ, già trẻ đều họp.
Nơi đó có núi cao, đỉnh lớn, rừng rậm, trúc dài, lại có dòng trong chảy xiết, chiếu quanh hai bên, dẫn nước uốn khúc là chỗ thả chén[9]. Mọi người ngồi theo thứ tự. Tuy không có tiếng tơ, tiếng trúc, tiếng quản, tiếng huyền[10] cho vui tai, nhưng uống một hớp rượu, ngâm một câu thơ, cũng đủ sướng u tình[11]. Hôm đó khí trời trong sáng, gió nhẹ lâng lâng, ngẩng nhìn vũ trụ mênh mông, cúi xem vạn vật muôn vẻ, phòng tầm mắt, mở cõi lòng, đủ để hưởng hết cái thú của tai mắt, thực là vui vậy.
Người ta cùng cúi ngửa trong đời[12], có người đem cái hoài bão của mình ra đàm đạo với bạn bè trong một nhà, có kẻ gởi tấm lòng ở một sự tình gì mà phóng lãng ở ngoài hình hài; hai hạng người đó tuy thủ xả tĩnh động[13] khác nhau, nhưng đương lúc cái già sắp tới, kịp đến khi mõi mệt, tình ý theo thế sự mà thay đổi, thì đều sinh ra cảm khái. Cái mà trước kia vui trong lúc cuối ngửa, nay đã thành ra vết cũ, mà nhớ lại lòng không thể không hoài cảm. Huống đời người dài ngắn do trời, nhưng đều qui về cõi chết cả. Cổ nhân nói: “Tử sinh đều là việc lớn”, há chẳng đau lòng thay!
Mỗi khi xét nguyên do người đời xưa cảm khái như in với người đời nay[14], không lần nào đọc văn người trước mà không than thở buồn rầu, trong lòng không hiểu tại sao. Cho nên bảo sinh tử cũng như nhau là lời hư ngoa[15]; bảo Bành Tổ không hơn gì kẻ chết yểu[16] là lời nói láo. Người đời sau nhìn lại đời bây giờ cũng như người bây giờ nhìn lại đời xưa[17], buồn thay!
Vì vậy tôi chép lại chuyện người trong tiệc, sao lục thơ họ làm, tuy đời và việc đều khác nhưng lẽ sở dĩ cảm khái thì là một[18]. Người đời sau đọc bài này chắc không khỏi bùi ngùi[19].
Chú thích:
[5] Vĩnh Hoà là niên hiệu Tấn Mục
Đế (345-361).
[6] Nguyên văn: mộ xuân là cuối
mùa xuân.
[7] Sơn Âm, Cối Kê đều ở Chiết
Giang.
[8] Lễ tu hễ là một cuộc lễ vào
ngày tị trong thượng tuần tháng ba; người ta ra bờ sông tắm rửa, vẩy nước để trừ
ma và những điều bất tường.
[9] Trong khi làm lễ đó, người
ta ngồi rải rác hai bên bờ sông, thả một chén rượu ở trên dòng nước, chén trôi
xuôi xuống, tấp vào chỗ nào thì người ta lại vớt lên, uống rượu trong chén (vì
vậy cho nên gọi là lưu thương: lưu là trôi, thương là chén rượu); có lẽ không
muốn cho chén trôi xa, người ta lựa chỗ nào dòng nước uốn khúc mà thả; nếu
không thì phải dẫn nước sao cho nó chảy uốn khúc (như vậy gọi là khúc thuỷ:
khúc là uốn cong, thuỷ là nước).
[10] Quản là ống sáo, tiếng trúc
tức là tiếng sáo. Huyền là dây đàn, cái đàn; tiếng tơ tức tiếng đàn.
[11] Nghĩa là lòng hả hê, vui vẻ,
không buồn rầu nữa.
[12] Ý nói: sống ở trên đời.
[13] Thủ là lấy, xả là bỏ. Thủ
và động trỏ hạng người xử thế, xả và tĩnh trỏ hạng người xuất thế. Hai hạng người
đó, tác giả đã nói trong hàng trên: hạng đem hoài bão ra đàm đạo với bạn bè và
hạng phóng lãng ở ngoài hình hài.
[14] Nguyên văn: nhược hợp nhất
khế, nghĩa là như hai phần một tờ khế ước hợp với nhau. Cổ nhân làm khế ước, có
hai phần: bên phải, bên trái; mỗi người giữ một bên, khi ráp hai phần lại thì hợp
với nhau. Câu này ý nói cổ nhân cũng buồn về sinh tử như ta.
[15] Coi sinh tử như nhau là
thuyết của Trang Tử, cũng là thuyết của nhà Phật.
[16] Ông Bành Tổ thọ tám trăm tuổi;
Thương là đứa trẻ chết non. Coi thọ yểu cũng như nhau cũng là
thuyết của Trang Tử. Ý nói: người thời nào cũng buồn
về sinh tử mà lại bảo sinh tử là một, thọ yểu như nhau thì quả là không hợp
nhân tình.
[17] Ý nói: đời sau có nhìn lại
đời bây giờ thì cũng không thấy được người bây giờ, cũng như bây giờ nhìn lại
thời trước, không thấy cổ nhân nữa.
[18] Câu này ứng với câu: “Mỗi
lãm tích nhân hưng cảm chi do, nhược hợp nhất khế” ở trên.
[19] Câu này ứng với câu: “vị
thường bất lâm văn ta điệu” ở trên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét